
TÊN CỦA NGƯỜI VIỆT – KHÁI LƯỢC MẤY NÉT CƠ BẢN
TÊN CỦA NGƯỜI VIỆT – KHÁI LƯỢC MẤY NÉT CƠ BẢN
Con người, bất kỳ ai cũng có một tên riêng của mình. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc có một quy ước đặt tên khác nhau. Ở đây, Đồ thờ Hải Mạnh chỉ xin bàn đến tên của người Việt (người Kinh).
Tên người Việt được các nhà nghiên cứu cho rằng bắt đầu có từ thế kỷ 2 trước Công nguyên. Không có một nguyên tắc chung nào trong việc đặt tên, nhưng đối với tâm lý của người Việt Nam, việc đặt tên rất quan trọng vì mỗi cái tên gắn chặt với mỗi con người. Có thể căn cứ vào đặc điểm, giới tính, hoàn cảnh gia đình, dòng họ, quê hương, xã hội và cả ước vọng của chính bản thân để người đặt tên gửi gắm vào cái tên đó. Tên người Việt Nam ngoài chức năng để phân biệt người này với người khác ngoài ra, tên còn có chức năng thẩm mỹ nên thường được chọn lựa khá kỹ về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa.
Thông thường, họ tên người Việt được nói và viết theo thứ tự: Họ + Tên đệm + Tên chính.
1. Họ
Tên họ thường đứng đầu tiên. Các họ lớn ở Việt Nam đa số có một triều đại trong lịch sử nước này. Phần lớn các họ phổ biến ở Việt Nam gắn liền với các triều đại phong kiến Việt Nam. Họ phổ biến nhất của người Việt (người Kinh) cũng như của toàn bộ người Việt Nam là họ Nguyễn, theo một thống kê năm 2005 thì họ này chiếm tới khoảng 38% dân số Việt Nam. Đây là họ của triều đại phong kiến Việt Nam cuối cùng, triều nhà Nguyễn. Theo cuốn “Họ và Tên người Việt Nam” soạn bởi Tiến sĩ Lê Trung Hoa được Nhà xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản (2005), 14 họ phổ biến của người Việt (chiếm khoảng 90% dân số Việt Nam) là: Nguyễn, Trần, Lê, Phạm, Hoàng (Huỳnh), Phan, Vũ (Võ), Đặng, Bùi, Đỗ, Hồ, Ngô, Dương, Lý.
2. Tên đệm
Tên đệm hay tên lót nằm giữa tên họ và tên chính. Trong khi họ là để phân biệt huyết thống và tên chính dùng để phân biệt người này với người khác thì một số tên đệm thường dùng để phân biệt giới tính (nam, nữ) như Thị, Diệu, Nữ dùng cho nữ giới; Bá, Mạnh, Văn dùng cho nam giới. Nhưng ngày nay một số tên đệm như Thị đã ít được dùng như trước.
2.1. Hình thức và mối liên kết
Xét về hình thức, tên đệm có thể là một từ như: Nguyễn Văn Thưởng, Cao Văn Miên; hai từ như Nguyễn Ngọc Minh Khoa, Cao Trần Ngọc Minh; nhưng cũng có thể không có: Lý Bí, Lê Lợi…
Xét về mặt liên kết với các thành phần khác trong tên, tên đệm có thể là thành phần độc lập, cũng có thể liên kết với tên họ hoặc với tên chính:
- Tên đệm đứng độc lập: là loại tên đệm không phối hợp được với tên họ hay tên chính để làm thành từ kép. Ví dụ với Nguyễn Văn Thưởng thì từ "Văn" hay không thể phối hợp với tên họ hoặc tên chính để làm thành từ kép có một ý nghĩa khác.
- Tên đệm phối hợp với tên chính: Hầu hết tên chính người Việt Nam xuất phát từ nguồn gốc Hán-Việt. Trong văn chương, các từ này được coi là hay hơn các từ Nôm nên khi đặt tên người ta cố gắng lựa tên đệm nào có thể đi chung với tên chính để có ý nghĩa rộng hơn, tốt đẹp hơn như Nguyễn Quang Minh, Trần Hùng Dũng, Lê Minh Khoa, Lê An Bình...
- Tên đệm phối hợp với tên họ: Rất ít tên người Việt có tên đệm phối hợp được với tên họ để làm thành từ kép có ý nghĩa, ngoại trừ: Hoàng Kim Vui, Võ Văn Trung...
- Tên đệm có hai chữ, một độc lập, một phối hợp với tên chính: ví dụ Đỗ Văn Quang Minh: tên đệm "Văn" đứng độc lập, tên đệm "Quang" đi với tên chính là "Minh" để thành "Quang Minh" (nghĩa là sáng sủa)
2.2. Chức năng tên đệm
Tên đệm có thể có nhưng cũng có thể không có nên chức năng của nó đôi khi cũng không rõ ràng. Một số chức năng của tên đệm, đó là:
- Phân biệt giới tính: nữ giới thường chọn tên đệm Thị, Diệu, Nữ; nam là: Bá, Mạnh, Văn…
- Phân biệt chi, ngành trong một dòng họ lớn: Ngô Thì, Ngô Vai; Nguyễn Đức, Nguyễn Mậu...
- Phân biệt thứ bậc trong gia đình: một số người dùng từ đệm “Bá” để chỉ con cả dòng họ trưởng, “Mạnh” để chỉ con cả dòng họ thứ, ''Gia” chỉ con trưởng, “Trọng” chỉ con thứ hai...
- Mang ý nghĩa thẩm mỹ: một số tên đệm chỉ có chức năng thẩm mỹ và nam nữ đều có thể dùng như: Nguyễn Bạch Dương, Lê Bạch Huệ, Phan Kim Huê, Đỗ Kim Nga...
3. Tên chính
Tên chính là tên gọi của từng cá nhân, để phân biệt với những cá nhân khác. Trong tên của người Việt, tên chính thường ở vị trí cuối cùng. Trong một vài trường hợp, theo thói quen người ta gọi đệm thay cho tên chính.
Tên chính của người Việt thường có những đặc điểm sau:
- Hán-Việt giữ vai trò chủ đạo: thường được cấu tạo bằng hai từ: một để làm tên đệm, một để làm tên chính. Hai từ đó hợp lại có ý nghĩa rộng hơn, hoa mỹ hơn. Ví dụ: Vĩnh Phú (giàu có muôn đời), Bạch Tuyết (trong trắng như tuyết), Hoài An (mong được an bình)... Tên chính từ gốc Nôm thường được các gia đình ở nông thôn, ít học, đặt cho con cái, tên từ gốc Nôm có vẻ mộc mạc như: Bông, Rồi, Vui, Cười, Lây, Đực, Tí, Cò… đã làm nhiều người băn khoăn, khó chịu về cái tên của mình, nhất là khi lên thành thị sinh sống. Sau này, do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, một số tên nước ngoài cũng xuất hiện như: Trần Văn Pierre, Lê Văn Paul, Trần Thị Paulette, Nguyễn Thị Suzanne...
- Có lựa chọn và có lý do: Người Việt Nam quan niệm tên chính là một bộ phận gắn chặt với người mang tên đó. Tục ngữ có câu: "Xem mặt đặt tên", bởi vậy khi đặt tên người ta thường chọn lựa kỹ và căn cứ đặc điểm, giới tính, hoàn cảnh gia đình, dòng họ, quê hương xã hội, ước vọng cha mẹ... mà chọn, chứ không đặt tùy tiện.
- Số lượng phong phú: So với họ và tên đệm, tên chính phong phú hơn về số lượng. Bất cứ tiếng nào trong kho tàng ngôn ngữ Việt cũng có thể là tên người Việt Nam. Tuy nhiên, vì tính lựa chọn, có những từ hầu như hiếm được dùng làm tên chính như: cùi, ung thư, tù, ngục, tai nạn...
- Khó phân biệt nam nữ với tên chính: Về nguyên tắc, tên chính của nam nữ không có gì để phân biệt. Tuy nhiên, căn cứ vào ý nghĩa của tên chính ấy, phối hợp tên chính với tên đệm và dựa vào thói quen có thể đoán tương đối chính xác một tên là nam hay nữ.
+ Tên nữ thường là tên loài hoa: Mai, Lan, Cúc, Hoa, Hương...; tên loài chim đẹp có tiếng hót hay: Yến, Anh, Oanh...; tên đá quý: Bích, Ngọc, Trân...; tên loại vải quý: Nhung, Gấm, Là, Lụa...; từ ngữ chỉ đức tính: Hạnh, Thảo, Hiền, Dung...; hay từ ngữ có âm thanh nhẹ nhàng, có ý nghĩa hoa mỹ: Vân, Thúy, Diễm, Lệ, Nguyệt, Trang, Huyền...
+ Tên nam thường được chọn trong các tiếng biểu lộ được sự mạnh mẽ về thể xác lẫn tinh thần. Tên nam thường là tiếng chỉ sức mạnh: Cương, Cường, Hùng, Tráng, Dũng...; tiếng chỉ trí tuệ: Thông, Minh, Trí, Tuệ, Sáng, Hoài...; tiếng chỉ đức hạnh: Nhân, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Công... hay tiếng chỉ tiền tài danh vọng: Phú, Quý, Kim, Tài, Danh...hay chỉ đất nước như Sơn,Giang, Lâm,Hải, Dương...
- Xu hướng đa tiết hóa tên chính: Trước đây, họ và tên thường 3 tiếng, ngày nay xu hướng phát triển thành 4 ngày càng nhiều, nhất là ở nữ giới.
- Tên chính không được trùng tên với các bậc trưởng thượng: theo tục kỵ húy, tên chính của người Việt không được trùng với tên thần thánh, vua chúa, những người thuộc thế hệ trước của gia đình, gia tộc./.