Ý NGHĨA CHUÔNG TRỐNG BÁT NHÃ TRONG ĐẠO PHẬT
Ý NGHĨA CHUÔNG TRỐNG BÁT NHÃ TRONG ĐẠO PHẬT
Trong đạo Phật, chuông và trống là hai trong các loại pháp khí đã trở nên quen thuộc, gần gũi với truyền thống, văn hóa, tín ngưỡng dân tộc của người Việt Nam.
Chuông là một loại pháp khí sử dụng riêng ở đạo Phật, được đúc bằng kim loại, phát ra âm thanh vang rền và thanh thoát, thường gọi là Đại hồng chung, hình dáng của nó được làm theo các hình tháp hay hình chén rỗng.
Trong Phật giáo, chuông được coi là biểu trưng cho trí tuệ. Mỗi khi âm thanh huyền diệu ngân vang thì đó chính là lời triệu gọi làm tỉnh giấc bao tâm hồn đang ngủ say trong lầm mê và thanh lọc bao cõi lòng của người con Phật.
Tiếng chuông vang dứt trừ vọng hoặc nghiệp trần gian, thông suốt khắp mười phương cõi Niết bàn, thấu đến cõi địa ngục, u đồ chúng sinh khi nghe thấy liền bớt đau khổ và được giải thoát. Tam đường (địa ngục, ngã quỷ, súc sanh) cùng bát nạn (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sinh lên cõi trời trường thọ, sinh ở uất đan việt, đuôi diếc câm ngọng, thế trí biện thông, sinh trước Phật và sau Phật) được tiêu tan. Lại nữa, tiếng chuông thanh thoát của chùa có thể giúp cho loài quỷ đói được nhẹ bớt lòng tham, sân, si mà giải thoát khỏi kiếp ngạ quỷ.
Trống là một trong những loại nhạc khí được sử dụng rộng rãi thường làm bằng đá, cây, đồng,… Tùy thuộc vào mục đích của người sử dụng mà nó có công năng khác nhau, nhưng riêng ở Phật giáo, tiếng trống tượng trưng cho chánh pháp và là âm thanh truyền tải giai điệu thuần khiết cho đời sống tâm linh. Đây cũng chính là một trong những phương tiện để nhắc nhở người con Phật luôn sống bằng lòng chân thật, không giả dối, cảm thông, chia sẽ,… Chúng sinh mỗi khi nghe tiếng trống chánh pháp ấy thì tội chướng được tiêu trừ và cũng nhờ đó mà được giải thoát vào cảnh giới an lạc.
Còn từ Bát Nhã tiếng Sanscrit là Prajnà, tiếng Pali là Panna, chữ Hán dịch là Trí tuệ hay Tuệ minh. Đó là một loại trí tuệ sáng suốt, thanh tịnh, rỗng lặng, không còn bị chi phối bởi phiền não. Đó là trí tuệ đệ nhất. Bát nhã là mầm mống trí tuệ siêu việt, cao tột, thậm thâm vi diệu, vốn sẵn có trong mỗi người nhưng vì bị vô minh, ái dục che mờ nên con người không tự biết.
Vì vậy, tiếng chuông, tiếng trống là hai thứ tiếng có sức mạnh thúc giục giúp cho con người khai sáng tiềm lực, mở thông trí tuệ, hiện hữu, không gián đoạn. Tiếng chuông trống Bát nhã kêu gọi con người thức tỉnh, thôi thúc con người thắp lên ngọn đuốc trí tuệ soi sáng con đường giải thoát. Một khi trí tuệ và chánh pháp hòa vào nhau thì sẽ tạo âm vang vào lòng người, đánh động lương tri, khơi dậy thiện căn và cũng là ngọn nến thắp sáng bóng tối vô minh. Đó cũng chính là lúc con đường giác ngộ được mở thông, sanh trí huệ chăm bón cho hạt giống bồ đề trong tâm thức được tăng trưởng.
Chuông trống Bát Nhã thường được sử dụng vào những ngày lễ lớn trong năm, ngày sám hối, khóa tu, cung thỉnh các giảng sư, chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức và mở đầu hoặc kết thúc một quyển kinh. Riêng ở xã hội phong kiến, chuông trống Bát nhã còn được đánh để cung đón vua đến viếng chùa. Mang công dụng cung thỉnh chư Phật thượng đường chứng minh, cung nghinh chư Tôn thiền Đức quang lâm và đồng thời báo hiệu quý nam nữ Phật tử tập trung về chánh điện, giảng đường,… nhiếp tâm về với chánh niệm. Đây là một nghi thức hành lễ Phật giáo của Trung Hoa du nhập sang Việt Nam.
Tiếng chuông hay tiếng trống đó đều là loại pháp khí mang ý nghĩa sâu sắc trong sự tồn tại và phát triển của Phật giáo và mang ý nghĩa tâm linh trong tâm hồn những ai là người con Phật. Hồi chuông, hồi trống vang lên còn ngầm có ý nghĩa là cảnh tỉnh mọi người nên thức tỉnh tu hành tìm về nẻo giác. Vì thế, chuông trống bát nhã rất quan trọng trong thiền môn, mỗi khi ngân vang là lời nhắc nhở cho con người trang bị hành trang trí huệ trên lộ trình giải thoát./.