Ý NGHĨA NHÂN VĂN CỦA LỄ VU LAN
Ý NGHĨA NHÂN VĂN CỦA LỄ VU LAN
Lễ Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung - cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước).
Ngày lễ Vu Lan là dịp “nhắc nhở” các thế hệ con cháu nhớ tới công ơn dưỡng dục sinh thành của cha mẹ, ông bà, tổ tiên cũng như những đóng góp to lớn của các anh hùng dân tộc, những người có công với đất nước. Ðồng thời giúp chúng ta tiếp cận được những ý nghĩa giáo dục đầy nhân bản của văn hoá Phật giáo là “Từ, bi, hỷ, xả”, “vô ngã, vị tha”, “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Không riêng gì đối với mỗi Phật tử, Lễ Vu Lan mở ra cả một mùa báo ân, báo hiếu. Báo hiếu ở đây là đối với bố mẹ, người đã sinh thành và nuôi dưỡng chúng ta không chỉ ở kiếp này mà còn ở nhiều kiếp khác, bởi Phật giáo luôn nhìn nhận con người trong mối tương quan nhân quả, trong vòng báo luân hồi. Điều này dẫn đến việc chúng ta phải mở rộng vòng báo hiếu ra tất cả các chúng sinh. “Phổ độ chúng sanh” “cứu nhân độ thế” “xá tội vong nhân”.
Trên thế giới này mọi sinh vật đều có sự sống do cha mẹ sinh ra. Cha mẹ phải chịu nhiều khổ cực để sinh con ra, để nuôi con khôn lớn. Con người được hơn những loại động vật khác là có thể hiếu đạo. Nếu ai đó đã không thương cha, kính trọng mẹ thì còn tồi tệ hơn những loại cầm thú. Vì thế nếu chúng ta tự nhận mình là con người thì phải biết ơn và báo hiếu.
Biết ơn là phải biết mình được sinh ra từ đâu.
Báo hiếu là sự đền đáp công đức sinh thành dưỡng dục của người con đối với cha mẹ hiện tiền và cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp.
Bất cứ ai hiện hữu trên đời, trước hết phải được mẹ mang nặng đẻ đau: “Chín tháng cưu mang, nặng nhọc như đội núi; đêm đêm như bệnh nặng, ngày ngày tợ hoàng hôn; trong khi sinh nở, gan ruột dường như xé rách, đau đớn mê man, máu huyết dầm dề” (Kinh Báo Ân). Sinh con ra cha mẹ đã khổ nhọc, để nuôi con khôn lớn lại chịu khổ nhọc hơn, bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn, thậm chí vì con mà phải làm ác. Con là vàng ngọc, là giọt máu của cha mẹ chia hai, nên dẫu con thế nào cha mẹ vẫn thương con. Tình thương đó “có dừng lại chăng, chỉ hơi thở sau cùng”. (Kinh Báo Ân). Ơn sinh thành của cha mẹ thật bao la, cao như núi và rộng như biển: “Mẹ còn sống gọi là mặt trời giữa trưa chói sáng, mẹ khuất bóng rồi gọi là mặt trời đã lặn” (Kinh Tâm Địa Quán). Trong cuộc sống, không có hạnh phúc nào lớn hơn hạnh phúc còn cha mẹ, và không có bất hạnh nào lớn hơn bất hạnh của kẻ mồ côi.
Căn bản đạo đức cũng bắt đầu từ sự giáo dục gia đình, vì cha mẹ là chuẩn mực của các con từ lúc còn thơ ấu. Mãi mãi về sau, dù ở lứa tuổi nào, chúng ta cũng thấy cha mẹ là chổ dựa tinh thần vững chắc. Có thể lúc ta thành công trong sự nghiệp hay hạnh phúc trong cuộc sống lứa đôi thì ta không cảm nhận rõ điều này, nhưng khi gặp cảnh ngộ không may, khi bị sống đời vùi dập tơi tả, khi hoàn toàn mất hết niềm tin đối với người chung quanh, ta mới chợt hiểu rằng, nơi một gốc trời xa yêu dấu, cha mẹ vẫn là chiếc nôi ấm cho mình ru giấc ngủ sâu, là vòng tay êm xóa tan hết nơi mình mọi buồn đau hận tủi. Ân sủng thiêng liêng ấy, tình cảm bao la bất tận ấy, ta có thể tìm được nơi đâu, ngoài cha mẹ của mình?
Nói về đạo hiếu, kinh điển Phật giáo đề cập đến rất nhiều, ngoài kinh Vu Lan Bồn ra, còn có một số kinh khác như kinh Nhẫn Nhục, Đại Tập, Tứ Thập Nhị Chương, A Hàm, Tăng Chi … lời lẽ rất thống thiết, sinh động. Ngay trong bản kinh “Tứ Thập Nhị Chương” đã trình bày rõ quan điểm: “Phàm làm người phụng thờ qủy thần, không bằng phụng thờ cha mẹ, cha mẹ là vị thần tối thượng”. Còn kinh Đại Tập nói rằng: “Nếu ở đời không có Phật thì hãy theo phụng thờ cha mẹ cũng như phụng thờ Phật”. Phụng dưỡng cha mẹ là một sứ mệnh thiêng liêng, vượt lên trách nhiệm và bổn phận. Hiếu dưỡng cha mẹ bằng cách kính thuận năm điều: “Nuôi dưỡng cha mẹ; làm đủ bổn phận con cái đối với cha mẹ; giữ gìn gia đình và truyền thốn; bảo vệ tài sản thừa tự; làm tang lễ khi cha mẹ qua đời” (Kinh Giáo ThọThi La Ca Việt). Kính thờ cha mẹ, con cái phải làm tròn năm việc: “Phải lo sanh kế; dậy sớm lo cơm nước cho cha mẹ kịp thời; không nên làm cha mẹ thêm lo; phải nhớ ơn cha mẹ; khi cha mẹ có bệnh phải lo sợ chạy chữa kịp thời” (Kinh Lục Phương Lễ). Dù nổ lực để tận hiếu nhưng công ơn cha mẹ vô thượng thậm thâm thật khó đáp đền. Trong kinh Tăng Chi I, Đức Phật dạy “Có hai hạng người, này các Tỷ kheo, ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, một bên vai cõng cha, làm vậy suốt 100 năm cho đến khi các người 100 tuổi. Nếu đấm bóp, tắm rửa, và dầu tại đấy họ có vãi đại tiểu tiện, như vậy cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha”. Những cách báo hiếu trên tuy xem ra cũng cao cả và không phải người con nào cũng hiểu và làm được trọn vẹn. Thế nhưng theo như những gì Đức Phật dạy thì sự báo ân như vậy vẫn chưa trả đủ công ơn cha mẹ.
Hiếu đạo theo Phật giáo, nếu chỉ phụng dưỡng song thân đầy đủ vật chất cùng tất cả sự cung kính thì chưa đủ để báo ân cha mẹ. Người con hiếu, ngoài hiếu dưỡng thông thường phải hướng cha mẹ trở về an trú trong chánh pháp. Kinh Tăng Chi, Phật dạy: “Những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng, cúng dường cha mẹ với các của cải, đồ ăn, tiền bạc thì không bao giờ đủ để trả ơn cha me. Này các Tỷ kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào thiện giới ; đối với cha mẹ san tham, khuyến khích, hướng dẫn an trú vào bố thí ; đối với cha mẹ theo ác tuệ, khuyến khích, hướng dẫn an trú vào trí tuệ. Như vậy là làm đủ và trả ơn đủ cho mẹ và cha, là chân thật báo ân”.
Khuyến hóa cha mẹ trở về chánh pháp để tránh đọa lạc là cách báo hiếu trọn vẹn, bởi “Cúng dường cha mẹ không bằng khuyên cha mẹ làm việc lành, bỏ việc ác. Nếu không thể cải hóa cha mẹ phụng trì Tam bảo thời tuy có hiếu dưỡng cha mẹ cũng gọi là bất hiếu. Cha mẹ hung ngược, dâm dật, tà ngụy, trái đạo … người con phải hết sức ngăn cản mới gọi là hiếu” (Kinh Hiếu Tử).
Khi cha mẹ qúa vãng, Phật dạy: “Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, ngay Tăng Tự Tứ, thiết lễ cúng dường mười phương chúng Tăng, nguyện cho cha mẹ hiện đời phước thọ tăng long, cha mẹ bảy đời thoát khổ ngạ qủy, được sanh vào trời người hưởng phước lạc vô cùng”(Kinh Vu Lan Bồn).
Như vậy bổn phận con cái đối với cha mẹ thì ngoài việc dâng cúng những điều kiện về mặt vật chất là lẽ tất nhiên, thế nhưng sẽ có ý nghĩa hơn nếu như con cái biết hướng cha mẹ quy ngưỡng Tam Bảo, biết bố thí cúng dường, bỏ việc ác, làm các điều thiện.
Khuyến khích cha mẹ có lòng tin, làm điều lành, sống theo chánh kiến, đó là hành động báo hiếu có ý nghĩa nhất. Bởi vì nếu ai thực hiện được như vậy thì cha mẹ của họ sẽ tăng phúc, tăng thọ, an vui trong cuộc sống hiện tại mà đời sau cũng được thọ hưởng các quả báo tốt đẹp.
Hiếu dưỡng không chỉ báo đền ân đức cho cha mẹ mà chính người con cũng được tăng trưởng phúc đức: “Cúng dường cha mẹ dù một chút ít cũng được phước đức vô lượng” (Kinh Tạp Bảo Tạng).
Gia đình có con cháu hiếu thảo được Phật ca ngợi phước báu ngang hàng với Phạm thiên, xứng đáng được cúng dường. Kinh Tăng Chi, Phật dạy: “Những gia đình nào trong ấy các con cái kính lễ cha mẹ , những gia đình ấy được chấp nhận ngang hàng bằng với Phạm thiên, được chấp nhận là đáng được cúng dường”.
Nếu như con cái sống hiếu dưỡng với mẹ cha tạo phước đức vô lượng chừng nào thì bất hiếu là tội lớn nhất chừng đó. Chúng sinh phần nhiều vì nghiệp chướng che mờ tâm trí nên bất hiếu nhiều hơn hiếu thảo. Đức Phật xác định: “Điều ác nhất không gì hơn bất hiếu” (Kinh Nhẫn Nhục).
Tóm lại, Vu Lan là ngày lễ báo hiếu vô cùng cao đẹp của Phật giáo nói riêng và là ngày lễ hội báo hiếu nói chung của mọi người con có hiếu trên thế gian này. Lễ Vu Lan mang một ý nghĩa thật thiêng liêng cao cả, giúp cho con cái nghĩ nhớ đến công ơn cha mẹ, khơi dậy trong lòng họ một tinh thần báo hiếu đáng quý, đáng trân trọng - một đạo lý sống của dân tộc Việt Nam.